Cuộc đời Du Quý phi

Đại Thanh tần phi

Du Quý phi Hải thị sinh ngày 4 tháng 5 (âm lịch) vào năm Khang Hi thứ 53 (1714), phụ thân là Viên ngoại lang Ngạch Nhĩ Cát Đồ (额尔吉图). Thông tin gia tộc của bà còn mơ hồ, chỉ biết kỳ tịch của bà là Mông Cổ Tương Lam kỳ, người Nam Uyển Hải Tử, gia tộc gọi là "Kha Lý Diệp Đặc thị" (珂里叶特氏), qua thư tịch Hán là "Hải Giai thị" (海佳氏) hay "Hải thị". Bà vào hầu Càn Long Đế khi ông còn là Bảo Thân vương, vị phân là Cách cách, tức hàng thiếp hầu có địa vị thấp trong phủ để[1].

Năm Ung Chính thứ 13 (1735), ngày 3 tháng 9 (âm lịch), Bảo Thân vương Hoằng Lịch đăng cơ, tức [Càn Long Đế].

Sang ngày 24 tháng 9 (âm lịch) cùng năm, Hoàng đế đại phong phi tần, Cách cách Hải thị được phong làm Thường tại, phiên âm họ của bà trong văn bản thời Càn Long đều là họ Hải, do đó bà được gọi là [Hải Thường tại; 海常在][2][1], là bậc gần cuối của hàng ngự thiếp, chỉ trên Đáp ứng. Bấy giờ, tước vị của bà cùng Trần Thường tại là thấp nhất trong số các phi tần đã theo hầu Càn Long Đế từ Tiềm để. Năm Càn Long nguyên niên (1736), lại thăng Quý nhân[3].

Năm Càn Long thứ 6 (1741), ngày 7 tháng 2 (âm lịch), Hải thị sinh hạ Ngũ a ca Vĩnh Kỳ tại Vĩnh Hòa cung. Ngày 13 tháng 2 (âm lịch) cùng năm, chiếu tấn Du tần (愉嫔)[4]. Theo Hồng xưng thông dụng, "Du" có Mãn văn là 「Hebengge」, nghĩa là "hòa thuận", "thuận theo", "thỏa hiệp". Tháng 11 năm ấy, lấy Lễ bộ Thượng thư Nhậm Lan Chi (任兰枝) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Xuân Sơn (春山) làm Phó sứ, hành tấn phong lễ[5]. Năm thứ 10 (1745), ngày 23 tháng 1, Càn Long Đế chỉ dụ thăng Quý phi Cao thị làm Hoàng quý phi, đồng thời gia ân hậu cung. Nhàn phi Na Lạp thị cùng Thuần phi Tô thị tấn Quý phi, Quý nhân Ngụy thị lên Tần, còn Du tần Hải thị được sắc phong làm Phi, tức Du phi (愉妃). Lúc này cùng có vị Phi là Gia phi Kim thị - người hạ sinh Hoàng tứ tử Vĩnh Thành[6].

Ngày 17 tháng 11 (âm lịch) cùng năm ấy, mệnh Lễ bộ Thượng thư Lai Bảo (来保) làm Chính sứ, Công bộ Tả thị lang Tác Trụ (索柱) làm Phó sứ, hành sắc phong lễ[7].

Sách văn viết:

朕惟化理肇于宫闱。令仪是式。功容凛夫图史。位序宜崇。爰贲徽章。用昭懿典。咨尔愉嫔海氏。性生淑慎。质秉柔嘉。力佐椒涂。恒服勤而弗懈。荣分象服。早敬慎而无违。兹仰承皇太后慈谕。以册印封尔为愉妃。尔其祇承休命。愈怀谦抑之衷。式荷鸿禧。永迓骈繁之祉。钦哉。

.

Trẫm duy hóa lý triệu vu cung vi. Lệnh nghi thị thức. Công dung lẫm phu đồ sử. Vị tự nghi sùng. Viên bí huy chương. Dụng chiêu ý điển.

Tư nhĩ Du tần Hải thị. Tính sinh thục thận. Chất bỉnh nhu gia. Lực tá tiêu đồ. Hằng phục cần nhi phất giải. Vinh phân tượng phục. Tảo kính thận nhi vô vi. Tư ngưỡng thừa Hoàng thái hậu từ dụ, dĩ sách ấn phong nhĩ vi Du phi.

Nhĩ kỳ chỉ thừa hưu mệnh. Dũ hoài khiêm ức chi trung. Thức hà hồng hi. Vĩnh nhạ biền phồn chi chỉ. Khâm thử.

— Sách văn Du phi Kha Lý Diệp Đặc thị

Địa vị đứng đầu

Khi ấy, con trai duy nhất của bà là Ngũ a ca Vĩnh Kỳ rất thông minh, đa tài đa nghệ, được Càn Long Đế tương đối xem trọng. Năm Càn Long thứ 30 (1765), tháng 11, Ngũ a ca Vĩnh Kỳ bệnh nặng không thể qua khỏi, được Càn Long Đế tấn phong làm Hòa Thạc Vinh Thân vương, chỉ ba tháng sau đó thì Vĩnh Kỳ cũng qua đời.

Du phi Hải thị nhập Tiềm để hầu hạ Càn Long Đế hơn 10 năm, bên cạnh Càn Long Đế sau khi lên ngôi hơn 50 năm, cơ hồ cùng Hoàng đế bầu bạn cả đời nhưng chỉ sinh hạ một con trai là Vĩnh Kỳ, có thể thấy không thực sự được sủng ái. Việc phong được tước Phi phần nhiều là do Càn Long Đế yêu quý Vĩnh Kỳ chứ không phải thực sự do sủng ái bà. Sau khi Vĩnh Kỳ mất, con trai duy nhất là Hoàng tôn Miên Ức cũng do Hải thị chăm sóc và chiếu cố. Ngoài ra trong năm Càn Long, con gái cả Huyện quân của Vĩnh Kỳ qua đời, con gái duy nhất Tiểu cách cách được an bài bên phòng cạnh Đoan Tắc môn (耑則門), lại còn ra chỉ dụ đích thân Hải thị cùng con dâu - Đích phúc tấn Tây Lâm Giác La thị của Vĩnh Kỳ - rất chiếu cố Tiểu cách cách. Trong số những người từng hầu hạ Càn Long Đế từ khi ông còn là Thân vương, ngoài Uyển Quý phi Trần thị, thì Hải thị là người có tư lịch lâu nhất, địa vị của Hải thị so với chúng phi tần khác cũng gọi là chắc chắn, thậm chí nếu so với những tân sủng như Đôn phi hay Thuận phi, thì địa vị của Hải thị cũng là ở trên cho dù hai người này nổi tiếng được sủng ái vào những năm cuối đời Càn Long.

Sau khi Lệnh Ý Hoàng quý phi Ngụy thị cùng Khánh Quý phi Lục thị qua đời, mặc dù chưa từng được lên "Quý phi", nhưng Hải thị vẫn thường là người đứng đầu các phi tần tham gia nhiều nghi thức trọng đại với vị trí cao nhất, như dâng cơm cho Sùng Khánh Hoàng thái hậu hoặc được đảm nhiệm Thân tàm lễ. Tuy nhiên việc "đứng đầu" này không đồng nghĩa Hải thị là "Chủ nội trị" như Hoàng hậu, do việc điều phối chính thức của hậu cung đều do Nội vụ phủ đảm trách, việc các hậu phi thực hiện phần nhiều đều là nghi thức (ví dụ dâng cơm lên Thái hậu), nên việc khuyết thiếu vị trí Hoàng hậu không đồng nghĩa với việc phi tần sẽ thay thế Hoàng hậu, và điều này cũng là thực trạng khi Lệnh Ý Hoàng quý phi còn sống. Rất nhiều nghi thức triều Thanh vốn đề cập việc Hoàng đế và Hoàng hậu đích thân chủ trì, nhưng cũng rất nhiều lần những lễ đó được phái thân vương (quan viên) và phi tần (mệnh phụ) thay thế, ví dụ "Thân tàm lễ" bên trên.

Tặng làm Quý phi

Năm Càn Long thứ 57 (1792), ngày 21 tháng 5 (âm lịch), Du phi Hải thị qua đời, thọ 78 tuổi.

Sau khi Du phi Hải thị qua đời, kim quan tạm quàn tại Cát An sở (吉安所). Sang ngày 23 tháng 5 (âm lịch) cùng năm ấy, Càn Long Đế ra chỉ dụ tang lễ của Du phi lấy theo tang nghi của Khánh Cung Hoàng quý phi, khi qua đời là vị Quý phi, do đó có thể thấy Du phi là lấy lễ Quý phi mà an táng[8]. Ngày 27 tháng 5 (âm lịch), giờ Dần, kim quan của Du Quý phi được đưa từ Cát An sở đến Tĩnh An trang tạm an. Ngày 2 tháng 6 (âm lịch), lần lượt cử hành Tế văn sơ thứ và đại tế. Trong tế văn của hai lần này, Hải thị vẫn được giữ là Du phi[9][10], tuy nhiên vào Tế văn sau 100 ngày thì bà được Càn Long Đế nâng thành Quý phi trong lời văn tế, do vậy về sau bà được gọi là Du Quý phi (愉貴妃). Tất cả đều do Hoàng thập thất tử Vĩnh Lân cùng Lễ bộ Thị lang Thiết Bảo (铁保) chủ trì.

Tế văn 100 ngày của Du Quý phi:

星妃歛彩,音尘悲仙驭之遥。月琯迎寒,节序感隙驹之速。掩繐帷于炎夏,饬琱俎于萧晨,忽届十旬,弥萦五内。尔愉贵妃海氏,瑶斋选淑,镠册升华,兰馆襄勤,佐缫盆而懋典。禖祠协吉,征带韣以凝祥。惟巽命之能承,久膺宠号。迨坤闱之克副,晋领崇班。幸垂芘乎孙谋,伫加恩乎耋庆。频闻示疾,正虞药裹之缠,讵意衔哀,莫续彩丝之缕。輤輀已远,轸悼如新,于戏!驰急景于双轮,无复返魂之望,饰崇仪于百日,聿先成魄之期。尚鉴苾芬,惟灵祗格。

.

Tinh phi liễm thải, âm trần bi tiên ngự chi dao. Nguyệt quản nghênh hàn, tiết tự cảm khích câu chi tốc. Yểm huệ duy vu viêm hạ, sức điêu trở vu tiêu thần, hốt giới thập tuần, di oanh ngũ nội.

Nhĩ Du Quý phi Hải thị, dao trai tuyển thục, lưu sách thăng hoa, lan quán tương cần, tá sào bồn nhi mậu điển. Môi từ hiệp cát, chinh đái 韣 dĩ ngưng tường. Duy tốn mệnh chi năng thừa, cửu ưng sủng hào. Đãi khôn vi chi khắc phó, tấn lĩnh sùng ban. Hạnh thùy tỉ hồ tôn mưu, trữ gia ân hồ điệt khánh. Tần văn kỳ tật, chính ngu dược khỏa chi triền, cự ý hàm ai, mạc tục thải ti chi lũ. 輤 nhi dĩ viễn, chẩn điệu như tân.

Vu hí! Trì cấp cảnh vu song luân, vô phục phản hồn chi vọng, sức sùng nghi vu bách nhật, duật tiên thành phách chi kỳ. Thượng giám bật phân, duy linh chi cách.

— Tế văn 100 ngày của Du Quý phi Hải thị

Năm Càn Long thứ 58 (1793), ngày 13 tháng 10 (âm lịch), phụng di kim quan của Du Quý phi từ Tĩnh An trang đến Dụ lăng, Thanh Đông lăng. Ngày 20 tháng 10 (âm lịch), làm lễ nhập táng Du Quý phi vào Phi viên tẩm.